Tác động của TPP đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành dệt may

Thứ sáu - 06/01/2017 09:33
1. TỔNG QUAN VỀ TPP

1.1. TPP là gì?

         TPP là một hiệp định, thỏa thuận thương mại tự do giữa 12 quốc gia với mục đích hội nhập nền kinh tế khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. 12 thành viên của TPP bao gồm: Australia, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Vietnam, Mỹ và Nhật Bản.

            Ngoài ra các nước Colombia, Philippines, Thái Lan, Đài Loan và Hàn Quốc đã bày tỏ sự quan tâm đến TPP.

1.2. Mục tiêu của TPP

            Mục tiêu chính của TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên.

           Ngoài ra, TPP sẽ còn thống nhất nhiều luật lệ, quy tắc chung giữa các nước này, như: sở hữu trí tuệ, chất lượng thực phẩm, hay an toàn lao động…

         Thắt chặt hơn mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia này, thông qua các biện pháp giảm (thậm chí là loại bỏ hoàn toàn trong một số trường hợp) các hàng rào thuế quan giữa các nước, giúp tăng cường trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Cùng với tăng cường dòng chảy vốn, TPP cũng được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của nhóm 12 thành viên.

1.3. Nền tảng của TPP

           Cuối năm 2005, các nước Brunei, Chile, New Zealand và Singapore ký một hiệp định thương mại tự do (FTA) với tên gọi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, gọi tắt là Hiệp định TPP. Tháng 9/2008, Mỹ tuyên bố tham gia TPP, nhưng không phải “gia nhập” vào TPP cũ mà sẽ cùng các bên đàm phán một hiệp định FTA hoàn toàn mới, tuy nhiên, vẫn lấy tên gọi là Hiệp định TPP. Sau đó, Australia, Peru, Việt Nam, Malaysia, Canada, Mexico và Nhật Bản lần lượt tham gia vào TPP, đưa tổng số thành viên TPP hiện nay lên thành 12.

            Khởi động từ tháng 3/2010, đàm phán TPP đến nay đã trải qua 19 phiên chính thức và nhiều phiên giữa kỳ. TPP được kỳ vọng là mô hình mới về hợp tác kinh tế khu vực, tạo thuận lợi tối đa cho thương mại, đầu tư và nếu có thể sẽ trở thành hạt nhân để hình thành FTA chung cho toàn khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

1.4. Các lĩnh vực trong hiệp định TTP

            - Thương mại điện tử

            - Dịch vụ xuyên biên giới

            - Thuế

            - Môi trường

            - Dịch vụ tài chính

            - Sở hữu trí tuệ

            - Chi tiêu công của chính phủ

            - Đầu tư

            - Lao động

            - Pháp luật

            - Giải quyết tranh chấp

            - Nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa

            - Kiểm dịch thực phẩm

            - Viễn thông

            - Dệt may

            - Bồi thường thiệt hại thương mại

            - Doanh nhân sẽ được nhập cảnh dễ dàng hơn vào các nước thành viên

1.5. Những lợi ích khi tham gia TPP

            - Dễ dàng xin visa nhập cảnh vào các quốc gia thành viên.

            - Tạo nhiều công ăn việc làm cho người dân.

            - Đất nước sạch đẹp, an toàn hơn nhờ các yêu cầu bắt buộc về môi trường.

            - Xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ sang 12 nước thành viên với mức thuế rất thấp và sẽ gỡ bỏ trong tương lai. Rất có lợi cho các ngành dệt may, nông sản.

            - Được các nước phát triển hỗ trợ về kỹ thuật và tay nghề lao động.

            - Người dân được sử dụng sản phẩm chất lượng cao với giá thành rẻ, bên cạnh đó là đảm bảo vệ sinh an toàn đối với mặt hàng thực phẩm.

1.6. Lộ trình đàm phán TPP

            Đàm phán TPP là một quá trình dài với rất nhiều cuộc họp ở nhiều cấp khác nhau. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán thực sự chỉ bắt đầu từ năm 2010 và mục tiêu đặt ra là chốt lại vào năm 2012.

            Từ năm 2010 đến 2013, tổng cộng đã có 19 vòng đàm phán chính thức diễn ra. Trong đó có vòng đàm phán thứ 7 được tổ chức tại TP Hồ Chí Minh trong các ngày từ 15 đến 24/6/2011.

            Trong 2 năm gần đây là 2014 và 2015, tiếp tục có nhiều cuộc đàm phán cấp Bộ trưởng và cấp trưởng đoàn đàm phán diễn ra tại nhiều nước.

2. TÁC ĐỘNG CỦA TPP ĐẾN CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY VIỆT NAM

2.1. Tổng quan ngành dệt may Việt Nam

            Đặc điểm về ngành dệt may

            Ngành hàng dệt may là một trong những ngành chủ đạo của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, liên quan đến việc sản xuất sợi, dệt, nhuộm, vải, thiết kế sản phẩm, hoàn tất hàng may mặc và cuối cùng là phân phối hàng may mặc đến tay người tiêu dùng. Ngành dệt may góp phần đảm bảo nhu cầu tiêu dùng, cần thiết cho hầu hết các ngành nghề và sinh hoạt; là một ngành đem lại thặng dư xuất khẩu cho nền kinh tế; góp phần giải quyết việc làm; tăng phúc lợi xã hội.

            Lĩnh vực hoạt động chính:

            - Sản xuất, kinh doanh sợi va các sản phẩm may mặc

            - Xuất, nhập khẩu và kinh doanh thương mại ngành hàng dệt may

            Sản phẩm chính bao gồm:

            - Các sản phẩm may mặc

            - Sản xuất sợi, vải

            - Sản xuất các nguyên phụ liệu khác

            Một số ngành tương đồng như:

            - Sản xuất sợi nhân tạo

            - Sản xuất thảm, chăn đệm

            - Sản xuất các loại dây bện và lưới

            - Sản xuất sản phẩm từ da lông thú

            - Sản xuất giày dép

             Tình hình ngành dệt may Việt Nam hiện nay

            Ngành dệt may Việt Nam trong nhiều năm qua luôn là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục hải quan, năm 2015 xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam ra thị trường nước ngoài đạt 22,6 tỷ USD, tăng trưởng 8,91% so với năm 2014. Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Đức, Trung Quốc là các thị trường tiêu thụ chủ yếu các loại hàng dệt may của Việt Nam.

           Hiện cả nước có khoảng 6.000 doanh nghiệp dệt may; thu hút hơn 2,5 triệu lao động; chiếm khoảng 25% lao động của khu vực kinh tế công nghiệp Việt Nam. Theo số liệu của VITAS, mỗi 1 tỷ USD xuất khẩu hàng dệt may có thể tạo ra việc làm cho 150-200 nghìn lao động, trong đó có 100 nghìn lao động trong doanh nghiệp dệt may và 50-100 nghìn lao động tại các doanh nghiệp hỗ trợ khác. Phần lớn các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân (84%); tập trung ở Đông Nam Bộ (60%) và đồng bằng sông Hồng. Các doanh nghiệp may chiếm khoảng 70% tổng số doanh nghiệp trong ngành với hình thức xuất khẩu chủ yếu là CMT (85%).

(Nguồn: UNIDO China statistical yearbook)

h1

Hình 1: Chỉ số năng suất lao động khu vực sản xuất dệt may

            So với các quốc gia khác, năng suất lao động khu vực sản xuất của Việt Nam rất thấp. Chỉ số năng suất lao động khu vực sản xuất của Việt Nam chỉ đạt 2,4; trong khi các quốc gia sản xuất dệt may lớn khác như Trung Quốc, Indonesia là 6,9 và 5,2. Đây là một trong những điểm yếu lớn nhất của dệt may nói riêng và các ngành sản xuất thâm dụng lao động nói chung của nước ta.

2.2. Tình hình xuất nhập khẩu ngành dệt may Việt Nam

             Xuất khẩu:

h2

Hình 2: Giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam (tỷ USD)

           Kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam tăng đều qua các năm và hiện trở thành mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn thứ 2 của nước ta. Năm 2015, kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam đạt 22,6 tỷ USD, tăng 8,1%% so với cùng kỳ.

Xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đạt kim ngạch cao hơn so với các doanh nghiệp trong nước. Năm 2005, xuất khẩu dệt may của doanh nghiệp FDI chỉ đạt 2,14 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 44% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả nước. Xuất khẩu nhóm hàng này của doanh nghiệp FDI liên tục tăng và chính thức vượt doanh nghiệp trong nước kể từ năm 2007. Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp FDI đạt 10,7 tỷ USD, tăng 18,5% so với cùng kỳ và chiếm tỷ trọng 59,4% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may. Giá trị xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước đạt 7,3 tỷ USD, thấp hơn 3,4 tỷ USD so với doanh nghiệp FDI.

            Mức kim ngạch bình quân tháng của nhóm hàng dệt may xuất khẩu tăng liên tục qua các năm. Cụ thể, năm 2005 mức kim ngạch bình quân tháng chỉ là 401 triệu USD/tháng và đến thời điểm năm 2015 đạt 1883 triệu USD/tháng. Đáng chú ý, kim ngạch xuất khẩu bình quân tháng năm 2015 tăng 142 triệu USD so với năm 2012, đây là mức tăng lớn của xuất khẩu dệt may Việt Nam.

h3

Hình 3: Kim ngạch xuất khẩu dệt may bình quân tháng (triệu USD)

          Về cơ cấu xuất khẩu vào các thị trường chính thì Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc là 3 đối tác nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Năm 2015, tổng kim ngạch xuất khẩu sang 4 thị trường này đạt 15,8 tỷ USD chiếm tới 70% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước. Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ liên tục tăng mạnh qua các năm và đạt 10,95 tỷ USD năm 2015; chiếm 49% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam.

h4

Hình 4: Cơ cấu xuất khẩu vào các thị trường chính ngành dệt may Việt Nam

         Về chủng loại hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu ra thế giới chủ yếu là áo jacket, áo thun, quần và áo sơ mi. Năm 2014, giá trị xuất khẩu áo jacket đạt 4,78 tỷ USD; tăng 23,1% so với năm 2013.

             Nhập khẩu

            Nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong những năm qua chủ yếu là nguyên, phụ liệu dệt may, da, giày: trong tháng 12/2015 nhập khẩu đạt gần 1,5 tỷ USD, giảm 2,2% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 12/2015, cả nước nhập khẩu 18,3 tỷ USD nhóm hàng này, tăng 7% so với năm trước. Đây là năm có tốc độ tăng gần thấp nhất trong giai đoạn 2011-2015, chỉ cao hơn tốc độ tăng của năm 2012 (là 1,7%); trong khi đó năm 2011 là 14,8%, năm 2013 là 18,8% và năm 2014 là 15,4%

         Trong năm 2015 Việt Nam nhập khẩu nhóm mặt hàng này chủ yếu từ Trung Quốc đạt 7,62 tỷ USD, tăng 12,5%; Hàn Quốc: 2,82 USD, giảm 0,6%; Đài Loan: 2,33 tỷ USD, tăng 3%; Hoa Kỳ: 1,08 USD, tăng 40,4%…… so với năm trước.

2.3. Đánh giá thực trạng ngành dệt may Việt Nam

         Kết quả đạt được của ngành dệt may Việt Nam: Ngành dệt may Việt Nam có thể tận dụng một số điểm mạnh.

         Trước hết, trang thiết bị của ngành may mặc đã được đổi mới và hiện đại hoá đến 90%. Các sản phẩm đã có chất lượng ngày một tốt hơn, và được nhiều thị trường khó tính như Hoa Kỳ, EU, và Nhật Bản chấp nhận.

         Bên cạnh đó, các doanh nghiệp dệt may đã xây dựng được mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhiều nhà nhập khẩu, nhiều tập đoàn tiêu thụ lớn trên thế giới. Bản thân các doanh nghiệp Việt Nam cũng được bạn hàng đánh giá là có lợi thế về chi phí lao động, kỹ năng và tay nghề may tốt.

         Cuối cùng, Việt Nam được đánh giá cao nhờ ổn định chính trị và an toàn về xã hội, có sức hấp dẫn đối với các thương nhân và các nhà đầu tư nước ngoài. Bản thân việc Việt Nam tích cực tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới cũng mở rộng tiếp cận thị trường cho hàng xuất khẩu nói chung và hàng dệt may xuất khẩu nói riêng.

         Ngành dệt may có thể tận dụng một số cơ hội để phát triển xuất khẩu trong thời kỳ hiện nay. Sản xuất hàng dệt may đang có xu hướng chuyển dịch sang các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, qua đó tạo thêm cơ hội và nguồn lực mới cho các doanh nghiệp dệt may về cả tiếp cận vốn, thiết bị, công nghệ sản xuất, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, lao động có kỹ năng từ các nước phát triển.

           Bên cạnh đó, việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới cũng tạo điều kiện tiếp cận thị trường tốt hơn cho hàng dệt may. Việt Nam hiện đã là thành viên của WTO, đồng thời cũng đã tham gia ký kết và thực thi nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng ở cả cấp độ song phương (như Hiệp định đối tác thương mại Việt - Nhật) và đa phương (như các hiệp định trong khung khổ của ASEAN như ACFTA, AKFTA, ASEAN-Úc-Niu Dilân, v.v).

          Những cam kết của Việt Nam đối với cải cách và phát triển kinh tế đã tạo được sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, và mở ra những thị trường mới và các quan hệ hợp tác mới. Hơn nữa, bản thân thị trường nội địa có dân số hơn 90 triệu dân với mức sống ngày càng được nâng cao thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư và các doanh nhân.

           Những hạn chế của ngành dệt may Việt Nam

           Bên cạnh những kết quả đạt được ngành dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế và phải đối mặt với nhiều thách thức:

         Thứ nhất: May xuất khẩu phần lớn theo phương thức gia công, công tác thiết kế mẫu, mốt chưa phát triển, tỷ lệ làm hàng theo phương thức FOB thấp, hiệu quả sản xuất thấp. Trong khi đó, ngành dệt và công nghiệp phụ trợ còn yếu, phát triển chưa tương xứng với ngành may, không đủ nguồn nguyên phụ liệu đạt chất ­lượng xuất khẩu để cung cấp cho ngành may, do đó giá trị gia tăng không cao. Tính theo giá so sánh, giá trị sản phẩm của ngành dệt luôn tăng chậm hơn so với giá trị sản phẩm của ngành may mặc, cho thấy sự phụ thuộc của ngành may mặc đối với nguyên phụ liệu nhập khẩu.

         Thứ hai: Hầu hết các doanh nghiệp dệt may là vừa và nhỏ, khả năng huy động vốn đầu tư­ thấp, hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Chính quy mô nhỏ đã khiến các doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, và chỉ có thể cung ứng cho một thị trường nhất định. Do đó, khi thị trường gặp vấn đề, các doanh nghiệp dệt may sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh phương thức thâm nhập thị trường và/hoặc chuyển đổi sang thị trường khác. Những khó khăn, ít nhất là ban đầu, trong việc chuyển đổi định hướng sang thị trường nội địa trong thời điểm các thị trường xuất khẩu chính như Hoa Kỳ, EU đều gặp suy thoái kinh tế chính là những dẫn chứng tiêu biểu.

        Thứ ba: Kỹ năng quản lý sản xuất và kỹ thuật còn kém, đào tạo chưa bài bản, năng suất thấp, mặt hàng còn phổ thông, chưa đa dạng. Năng lực tiếp thị còn hạn chế, phần lớn các doanh nghiệp dệt may c­hưa xây dựng được th­ương hiệu của mình, chưa xây dựng được chiến lược dài hạn cho doanh nghiệp.

         Thứ tư: Ngành dệt may của Việt Nam cũng đang phải đương đầu với những thách thức không nhỏ. Một mặt, xuất phát điểm của dệt may Việt Nam còn thấp, công nghiệp phụ trợ chưa thực sự phát triển, nguyên phụ liệu chủ yếu nhập khẩu, tỷ lệ gia công cao, năng lực cạnh tranh còn yếu hơn các nước trong khu vực và trên thế giới... là thách thức khi hội nhập kinh tế toàn cầu.

          Thứ năm: Môi trường chính sách còn chưa thuận lợi. Bản thân các văn bản pháp lý của Việt Nam còn đang trong quá trình hoàn chỉnh, trong khi năng lực của các cán bộ xây dựng và thực thi chính sách, cũng như các cán bộ tham gia xúc tiến thương mại còn yếu, đặc biệt là hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, và kỹ năng.

2.4. Tác động của TPP đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam

        Khi Việt Nam gia nhập TPP, lợi ích đối với ngành dệt may Việt Nam thể hiện ở hai hình thức chủ yếu là lợi ích về thuế quan và lợi ích khác về tiếp cận thị trường.

         Tác động về thuế quan

        Về thuế quan, là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu, việc Việt Nam có thể tiếp cận các thị trường lớn như Hoa Kỳ (kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ năm 2015 là 10,95 tỷ USD chiếm 49% so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may) với mức thuế suất thấp hơn hoặc bằng 0 sẽ mang lại một lợi thế cạnh tranh vô cùng lớn và một triển vọng hết sức sáng sủa cho ngành sản xuất dệt may. Đồng thời, là một trong những ngành cần nhập khẩu nhiều hàng hóa nguyên phụ liệu từ nước ngoài, việc giảm thuế hàng nhập khẩu từ các nước TPP làm nguyên liệu đầu vào sẽ được hưởng lợi từ hàng hóa, nguyên liệu giá rẻ, giúp giảm chi phí sinh hoạt và sản xuất, từ đó có thể giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành.

          Tác động từ công cụ phi thuế quan        

         Về rào cản phi thuế quan, mặc dù về cơ bản những yêu cầu cao về vấn đề này có thể gây khó khăn cho Việt Nam (đặc biệt là chi phí tổ chức thực hiện của Nhà nước và chi phí tuân thủ của doanh nghiệp) nhưng xét một cách kỹ lưỡng một số tiêu chuẩn trong đó (ví dụ về môi trường) sẽ là cơ hội tốt để Việt Nam làm tốt hơn vấn đề bảo vệ môi trường (đặc biệt trong đầu tư từ các nước đối tác TPP) và bảo vệ người lao động nội địa. Lợi ích về lâu dài từ điều này là người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi ích từ sản phẩm hàng hóa có chất lượng được nâng cao.

          Những rào cản dưới dạng quy định kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ hay phòng vệ thương mại với quy chế nền kinh tế phi thị trường mà Hoa Kỳ thực hiện rất có thể sẽ vô hiệu hóa lợi ích từ việc giảm thuế quan. Bên cạnh đó, những điều kiện ngặt nghèo về lao động, về xuất xứ nguyên liệu cũng có thể khiến hàng hóa Việt Nam không tận dụng được lợi ích từ việc giảm thuế trong TPP. Đặc biệt, quy định xuất xứ “từ sợi” (yarn forward) của TPP buộc doanh nghiệp dệt may xuất khẩu phải sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu từ các nước thành viên TPP khác (không có Trung Quốc vốn là thị trường cung cấp nguyên phụ liệu dệt may cho Việt Nam) trong khi hiện nay tỉ lệ nội địa hóa của doanh nghiệp chưa cao, chỉ mới đạt 50%.

         Tác động đến thị trường hàng dệt may

         Về tiếp cận thị trường, tham gia TPP hàng hóa của Việt Nam có điều kiện thâm nhập sâu hơn vào thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản – những quốc gia có quy mô kinh tế hàng đầu thế giới –  chiếm lần lượt 56,91% và 21,64% GDP trong tổng các quốc gia thành viên trong Hiệp định TPP. Xuất khẩu trong ngành dệt may của Việt Nam đến hai quốc gia này hiện cũng đang chiếm tỉ trọng lớn, đạt lần lượt 49,23% và 13,8% trong 4 tháng đầu năm 2014.

          Ngoài ra, gia nhập TPP còn mang lại cho ngành dệt may và người tiêu dùng nhiều lợi ích khác, như lợi ích về thu hút đầu tư. Người tiêu dùng được hưởng lợi từ hàng hóa giá rẻ, môi trường kinh doanh cạnh tranh hơn, khả năng thu hút đầu tư vào ngành tăng.

          TPP dự kiến sẽ bao trùm cả những cam kết về những vấn đề xuyên suốt như sự hài hòa giữa các quy định pháp luật, tính cạnh tranh, vấn đề hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuỗi cung ứng, hỗ trợ phát triển… Đây là những lợi ích lâu dài và xuyên suốt các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt có ý nghĩa đối với nhóm doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất (doanh nghiệp nhỏ và vừa).

            Tác động về đối thủ cạnh tranh

            Doanh nghiệp may Việt Nam phải đối đầu với cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp nước ngoài khác khi họ đổ vốn đầu tư vào Việt Nam. Không chỉ những doanh nghiệp đến từ Trung Quốc, Đài Loan, hay Hồng Kông, nhiều doanh nghiệp dệt may lớn từ Hàn Quốc, Nhật Bản, thậm chí từ Mỹ, cũng đang hướng đến các dự án sản xuất ở Việt Nam để tận dụng cơ hội từ TPP. Các Công ty này đang mở rộng sản xuất, tăng số lượng nhà máy hoặc đầu tư nhà máy mới tại Việt Nam để đón đầu TPP. Điều này vô hình chung tạo áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy doanh nghiệp phải thay đổi định hướng, kế hoạch để tạo sự thay đổi, tập trung hơn vào chất lượng hàng hóa...

             Tác động đến người lao động

            Khi Việt Nam tham gia TPP, cơ hội mở ra thị trường lao động là rất lớn. Với ngành dệt - may Việt Nam nói riêng, nó không chỉ tạo ra số việc làm nhiều lên cho người lao động mà còn đòi hỏi chất lượng lao động trong ngành cũng phải được nâng cao hơn. Bởi khi đó, những tiêu chuẩn về lao động, về môi trường làm việc đòi hỏi ở mức độ cao hơn. Không những phải đảm bảo về tác phong công nghiệp theo yêu cầu của các chủ sử dụng lao động, đặc biệt là các chủ doanh nghiệp đến từ các đầu tư nước ngoài, mà người lao động còn phải đáp ứng được các quy định do TPP đưa ra cũng như các thông lệ quốc tế phải tuân thủ. Người lao động phải nâng cao ý thức lao động, kỷ luật lao động, nâng cao tay nghề, tự tạo cho mình cơ hội tốt hơn trong việc lựa chọn việc làm, thậm chí là ngành nghề, vì tất yếu sẽ có sự dịch chuyển lao động do có sự cạnh tranh về đãi ngộ, tiền lương và điều kiện lao động.

  1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHIẾN LƯỢC VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY VIỆT NAM KHI GIA NHẬP TPP

        Khi gia nhập TPP mang lại nhiều lợi ích nhưng cũng có nhiều thách thức với doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Để có thể đứng vững cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài thì doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải đổi mới theo các hướng sau:

3.1. Doanh nghiệp nên đa dạng hóa nguồn cung nguyên vật liệu, nhập khẩu từ các quốc gia đã tham gia TPP

            Để phục vụ sản xuất trong nước, nhu cầu về các mặt hàng vải, sợi, nguyên phụ liệu dệt may tăng nhanh trong thời gian tới, việc phụ thuộc quá nhiều vào một vài nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu sẽ hạn chế phát triển và sản xuất của các doanh nghiệp. Do đó, việc đa dạng hóa nguồn cung cấp nguyên liệu ngoài khu vực ASEAN và Trung Quốc là một trong những nhu cầu cấp thiết của ngành dệt may Việt Nam và Ấn Độ có thể là giải pháp phù hợp trong điều kiện hiện nay khi các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang được hưởng lợi khi xuất khẩu vào Hoa Kỳ.

3.2. Doanh nghiệp cũng nên tìm hiểu kĩ về các qui định, điều kiện đối với hàng hóa xuất khẩu (xuất xứ hàng hóa, quy định về bảo vệ môi trường, quy định về lao động,…)

            - Xuất xứ hàng hóa: Trong TPP, quy tắc xuất xứ được hiểu là các sản phẩm xuất khẩu từ một thành viên của TPP sang các thành viên khác đều phải có xuất xứ “nội khối”. Như vậy, những ngành nào, sản phẩm nào sử dụng các nguyên liệu của các nước thứ ba, ngoài thành viên TPP đều không được hưởng các ưu đãi thuế suất 0%. Quy tắc xuất xứ nhằm xác định sự hợp lệ của hàng nhập khẩu để được hưởng mức thuế ưu đãi.

            - Quy định về bảo vệ môi trường: Đặc trưng của ngành dệt may với các bước sản xuất cơ bản như kéo sợi, dệt vải, nhuộm, hay đối với ngành da giày là các bước thuộc da, sản xuất da nhân tạo, kết hợp với việc sử dụng nhiều thuốc nhuộm, hóa chất, tiêu thụ nhiều nước, phát sinh nhiều chất thải… là một trong những yếu tố gây tác động tiêu cực đến môi trường. TPP quy định cụ thể, mỗi bên phải thực thi hiệu quả và nghiêm túc pháp luật về môi trường của mình, không gây ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư giữa các bên. Nếu không đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật về môi trường, về khí thải, nước thải… thì rủi ro cho các doanh nghiệp dệt may, da giày là hoàn toàn có cơ sở.

            - Quy định về lao động: Tất cả các thành viên TPP đều là thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và thừa nhận mối liên hệ giữa quyền của người lao động với thương mại. Các thành viên cũng đồng ý có luật quy định mức lương tối thiểu, số giờ làm việc, an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, cho phép tồn tại “công đoàn độc lập”. Vì là môi trường lao động tự do, nên các doanh nghiệp sẽ tiếp tục phải đối mặt với cuộc chiến giành người lao động.

            Các doanh nghiệp dệt may và da giày với đặc trưng luôn phải sử dụng một lượng lớn lao động, sẽ cần phải chú ý đến các yếu tố như mức lương, chế độ chăm sóc, bảo hiểm… để hạn chế tranh chấp giữa người lao động và người sử dụng lao động. Trong bối cảnh hội nhập TPP, các doanh nghiệp lại càng phải chú trọng thực hiện đúng các quy định pháp luật về lao động, cụ thể là Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn, cũng như nâng cao chính sách trên mức luật định để tăng cường yếu tố cạnh tranh.

3.3. Doanh nghiệp may cần nâng cao năng lực cạnh tranh và tìm hiểu về các quy định liên quan đến cạnh tranh

            Khi gia nhập TPP, đối với ngành mũi nhọn như dệt may và da giày, cuộc chiến cạnh tranh luôn trong tình trạng gay gắt. Do đó, các doanh nghiệp cần phải có bước chuẩn bị cho việc đối mặt với các đối thủ cạnh tranh.

            Các thành viên TPP cùng quan tâm bảo đảm một khuôn khổ cạnh tranh bình đẳng trong khu vực, thông qua những quy định yêu cầu các thành viên duy trì hệ thống luật pháp cấm những hành vi kinh doanh phi cạnh tranh, cũng như những hoạt động thương mại gian lận và lừa đảo, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Bản thân mỗi doanh nghiệp cần hiểu biết rõ các quy định pháp luật liên quan như Luật Cạnh tranh, Luật Sở hữu trí tuệ, và nắm bắt rõ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh để góp phần tạo lập một môi trường kinh doanh lành mạnh và cạnh tranh tích cực.

Tài liệu tham khảo: Báo cáo ngành dệt may, cơ hội bứt phá, năm 2014.

Tác giả bài viết: Ngô Thị Luyện, Mạc Thị Liên

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây